Phúc âm tường thuật Đức Kitô sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Đây là lần đầu tiên các ông đi chung theo nhóm, mỗi nhóm hai người rao giảng Tin Mừng. Có sự khác biệt giữa Phúc âm Thánh Mattheu và Luca. Thánh Mattheu thuật việc Đức Kitô sai 12 môn đệ đến các chiên lạc nhà Israel; Thánh Luca tường thuật không phải chỉ có 12 tông đồ mà là 72 môn đệ được sai đi đến mọi người, kể cả dân ngoại. Thánh Luca cho biết lí do Đức Kitô sai môn đệ đi rao giảng vì 'Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về' Lc 10,2. Cánh đồng truyền giáo thường có tranh chấp vì thế Đức Kitô nói rõ cho các môn đệ biết để đề phòng: 'Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói'. c.3. Sói là loài thú ăn thịt các loài thú khác. Có khi chúng đi đơn độc, lại có lúc đi theo bầy đàn. Cần cẩn trọng khi gặp phải người có bản tính hung dữ, thích bạo động. Việc rao giảng Tin Mừng mang đến ba nhận thức. Thứ nhất, giúp các môn đệ nhận biết nhiều hơn về khả năng của mình. Thứ hai họ nhận ra tinh thần sẵn sàng hiến thân phục vụ Tin Mừng. Thứ ba họ cũng nhận biết tinh thần đón nhận Tin Mừng nơi dân chúng, cộng đoàn. Trước khi các ông ra đi, Đức Kitô dặn các ông một số điều cần ghi nhớ.
Thứ nhất, các ông cần ra đi một cách nhẹ nhàng, thảnh thơi. 'Đừng mang theo tiền, bao bị, giầy dép' c.4a. Điều này cho biết các ông sẽ sống chung với những người các ông phục vụ. Quan trọng hơn, các ông hoàn toàn lệ thuộc và hoàn đặt tin tưởng vào Đấng sai các ông đi.
Thứ hai, tránh la cà, trò chuyện dọc đường: 'Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường' c. 4b. Điều này cho biết sứ mạng quan trọng của các ông. Đó là rao giảng Tin Mừng. Việc vô bổ, chuyện vãn thường, có thể làm phân tâm trong vấn đề rao giảng. Từ đó dẫn đến việc coi nhẹ việc truyền giáo.
Thứ ba, Việc đầu tiên là mang bình an cho gia đình. 'Vào nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này' c.5. Điều này cho biết các môn đệ là sứ giả của bình an và các môn đệ mang đến ơn bình an. Người thích bạo động sẽ không đón nhận và ơn bình an đó sẽ trở lại với người ban phát nó. Ban bình an chính là món quà đầu tiên Đức Kitô sau khi sống lại từ cõi chết ban cho các Tông đồ khi Ngài hiện ra với các ông. Nơi nào có bình an, nơi đó vắng bóng sợ sệt. Bình an mang hy vọng và tương lai tươi sáng.
Thứ tư, các môn đệ sống hoà đồng với mọi người. Đức Kitô dặn tiếp: 'Người ta cho ăn uống gì thì anh em dùng thức đó' c.7. Ngồi chung bàn cho biết tinh thần hoà đồng, tình thân hữu, tính hiếu khách của chủ nhà. Đổi lại các môn đệ chữa bệnh tật của họ và rao giảng Tin Mừng.
Thứ năm, cách đối phó với kẻ mang tính sói là ra đi, tránh tranh chấp với họ. Điều này được nhắc đến có lẽ Đức Kitô nhắc nhở các ông tránh thái độ thách đố của hai môn đệ Giacôbe và Gioan chúng ta nghe tuần trước. Khi dân làng Samarita không đón tiếp các ông muốn đốt thành của họ. Đức Kitô hướng dẫn, kẻ mang tính sói không đáng tranh chấp. Không phải họ ghét người rao giảng Tin Mừng mà họ ghét Tin Mừng. Trong trường hợp này hãy ra đi nhưng vẫn làm tròn nhiệm vụ, nói cho họ biết: 'Triều đại Thiên Chúa đã đến gần'. c.12. Đón nhận hay từ chối quyền tự do của họ. Hướng dẫn này cho biết bác ái yêu thương nơi trần thế sẽ không bị quên lãng trong nước trời. Người đối xử tính lang sói với anh em nơi trần thế sẽ không gặp được lòng khoan dung nơi Thiên Chúa khi họ qua đời.
Các môn đệ trở về lòng dạt dào niềm vui. Các ông hớn hở nói với Đức Kitô: 'Nghe đến Danh Thầy, cả ma quỉ cũng phải khuất phục chúng con. c. 17. Đến đây thì rõ nghĩa 'chủ mùa gặt' không phải là ai khác mà là chính Đức Kitô, chủ mùa gặt nhắc đến nơi câu số hai trong đầu bài đọc. Các môn đệ có thêm nhận thức mới, nhận thức thứ tư. Danh của Đức Kitô có quyền năng đến độ ma quỉ nghe đến chúng khiếp sợ, run rẩy. Chúng ta cầu xin biết kính trọng mỗi khi nhắc đến hay nghe Danh Thánh Thiên Chúa.
TiengChuong.org
The Peace Mission
Today we hear about the mission of the seventy-two disciples. This is their first public mission. There is a difference between the Gospels of Matthew and Luke. In Matthew, the twelve Apostles were sent to the lost sheep of the Israel; while in Luke, the seventy two disciples were sent to everyone, including the gentiles. Luke gave the reason for the mission as 'The harvest is rich, but the labourers are few, so ask the Lord of the harvest to send labourers to his harvest (10,2a)'. The mission field is an interesting place, because Jesus told them 'I am sending you like lambs among wolves' (v.3). There is a danger in the mission. There is challenge. Wolves are blood thirsty. Men of this type of behaviour are quickly irritated and familiar with violence. The mission would help the disciples to learn about their own ability, and their readiness to serve others in God's name. The mission would help them to experience firsthand how the public would receive the message of the Good News. Jesus gave them other instructions:
a/ that they need to travel light. 'Do not carry purse, extra clothing or even sandals'. It indicates that first, they were totally dependent on the people whom they were sent to serve for food and shelter. Second, they were totally dependent on God for guidance and had to trust in their Master, Jesus.
b/ that 'Greeting no one along the way', is understood as the urgency of their mission. They needed to stay focussed on their mission, and not allow other things to distract them from their task.
c/ that the greeting of 'peace' to a household they entered meant they were people of peace, furthermore they had the message of peace. Peace was the very first word, the first message with which the Risen Lord greeted the Apostles. Where there is peace, fear disappears because peace brings hope and offers a bright future.
d/ that table fellowship was the obvious sign of acceptance and hospitality from their hosts. In return, they help those in need by curing the sick and telling them about the coming of the kingdom. This instruction echoed the incident from the last week's reading; James and John wanted to burn the Samaritan village for not making Jesus welcome and Jesus stopped them.
e/ if they met people who rejected the message of peace, just simply to walk away. Shaking off dust from their feet meant the missionary received nothing from them. However they was generous enough to tell them that 'the kingdom of God is very near'( v.12).
The message seems to suggest that 'inhospitality' right now here on earth by humans would be met by the heavenly power in heaven. The seventy two returned with great joy. They said 'Lord, even the devils submit to us when we use your name v.17'. The word 'Lord' relates to the word 'Lord of the harvest' (v2) at the beginning of the reading. The seventy two had personal experience that the power of Jesus' name is acknowledged. When evil spirits hear Jesus' name they feel fearful.
Thứ nhất, các ông cần ra đi một cách nhẹ nhàng, thảnh thơi. 'Đừng mang theo tiền, bao bị, giầy dép' c.4a. Điều này cho biết các ông sẽ sống chung với những người các ông phục vụ. Quan trọng hơn, các ông hoàn toàn lệ thuộc và hoàn đặt tin tưởng vào Đấng sai các ông đi.
Thứ hai, tránh la cà, trò chuyện dọc đường: 'Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường' c. 4b. Điều này cho biết sứ mạng quan trọng của các ông. Đó là rao giảng Tin Mừng. Việc vô bổ, chuyện vãn thường, có thể làm phân tâm trong vấn đề rao giảng. Từ đó dẫn đến việc coi nhẹ việc truyền giáo.
Thứ ba, Việc đầu tiên là mang bình an cho gia đình. 'Vào nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này' c.5. Điều này cho biết các môn đệ là sứ giả của bình an và các môn đệ mang đến ơn bình an. Người thích bạo động sẽ không đón nhận và ơn bình an đó sẽ trở lại với người ban phát nó. Ban bình an chính là món quà đầu tiên Đức Kitô sau khi sống lại từ cõi chết ban cho các Tông đồ khi Ngài hiện ra với các ông. Nơi nào có bình an, nơi đó vắng bóng sợ sệt. Bình an mang hy vọng và tương lai tươi sáng.
Thứ tư, các môn đệ sống hoà đồng với mọi người. Đức Kitô dặn tiếp: 'Người ta cho ăn uống gì thì anh em dùng thức đó' c.7. Ngồi chung bàn cho biết tinh thần hoà đồng, tình thân hữu, tính hiếu khách của chủ nhà. Đổi lại các môn đệ chữa bệnh tật của họ và rao giảng Tin Mừng.
Thứ năm, cách đối phó với kẻ mang tính sói là ra đi, tránh tranh chấp với họ. Điều này được nhắc đến có lẽ Đức Kitô nhắc nhở các ông tránh thái độ thách đố của hai môn đệ Giacôbe và Gioan chúng ta nghe tuần trước. Khi dân làng Samarita không đón tiếp các ông muốn đốt thành của họ. Đức Kitô hướng dẫn, kẻ mang tính sói không đáng tranh chấp. Không phải họ ghét người rao giảng Tin Mừng mà họ ghét Tin Mừng. Trong trường hợp này hãy ra đi nhưng vẫn làm tròn nhiệm vụ, nói cho họ biết: 'Triều đại Thiên Chúa đã đến gần'. c.12. Đón nhận hay từ chối quyền tự do của họ. Hướng dẫn này cho biết bác ái yêu thương nơi trần thế sẽ không bị quên lãng trong nước trời. Người đối xử tính lang sói với anh em nơi trần thế sẽ không gặp được lòng khoan dung nơi Thiên Chúa khi họ qua đời.
Các môn đệ trở về lòng dạt dào niềm vui. Các ông hớn hở nói với Đức Kitô: 'Nghe đến Danh Thầy, cả ma quỉ cũng phải khuất phục chúng con. c. 17. Đến đây thì rõ nghĩa 'chủ mùa gặt' không phải là ai khác mà là chính Đức Kitô, chủ mùa gặt nhắc đến nơi câu số hai trong đầu bài đọc. Các môn đệ có thêm nhận thức mới, nhận thức thứ tư. Danh của Đức Kitô có quyền năng đến độ ma quỉ nghe đến chúng khiếp sợ, run rẩy. Chúng ta cầu xin biết kính trọng mỗi khi nhắc đến hay nghe Danh Thánh Thiên Chúa.
TiengChuong.org
The Peace Mission
Today we hear about the mission of the seventy-two disciples. This is their first public mission. There is a difference between the Gospels of Matthew and Luke. In Matthew, the twelve Apostles were sent to the lost sheep of the Israel; while in Luke, the seventy two disciples were sent to everyone, including the gentiles. Luke gave the reason for the mission as 'The harvest is rich, but the labourers are few, so ask the Lord of the harvest to send labourers to his harvest (10,2a)'. The mission field is an interesting place, because Jesus told them 'I am sending you like lambs among wolves' (v.3). There is a danger in the mission. There is challenge. Wolves are blood thirsty. Men of this type of behaviour are quickly irritated and familiar with violence. The mission would help the disciples to learn about their own ability, and their readiness to serve others in God's name. The mission would help them to experience firsthand how the public would receive the message of the Good News. Jesus gave them other instructions:
a/ that they need to travel light. 'Do not carry purse, extra clothing or even sandals'. It indicates that first, they were totally dependent on the people whom they were sent to serve for food and shelter. Second, they were totally dependent on God for guidance and had to trust in their Master, Jesus.
b/ that 'Greeting no one along the way', is understood as the urgency of their mission. They needed to stay focussed on their mission, and not allow other things to distract them from their task.
c/ that the greeting of 'peace' to a household they entered meant they were people of peace, furthermore they had the message of peace. Peace was the very first word, the first message with which the Risen Lord greeted the Apostles. Where there is peace, fear disappears because peace brings hope and offers a bright future.
d/ that table fellowship was the obvious sign of acceptance and hospitality from their hosts. In return, they help those in need by curing the sick and telling them about the coming of the kingdom. This instruction echoed the incident from the last week's reading; James and John wanted to burn the Samaritan village for not making Jesus welcome and Jesus stopped them.
e/ if they met people who rejected the message of peace, just simply to walk away. Shaking off dust from their feet meant the missionary received nothing from them. However they was generous enough to tell them that 'the kingdom of God is very near'( v.12).
The message seems to suggest that 'inhospitality' right now here on earth by humans would be met by the heavenly power in heaven. The seventy two returned with great joy. They said 'Lord, even the devils submit to us when we use your name v.17'. The word 'Lord' relates to the word 'Lord of the harvest' (v2) at the beginning of the reading. The seventy two had personal experience that the power of Jesus' name is acknowledged. When evil spirits hear Jesus' name they feel fearful.